Nguồn gốc và ý nghĩa của Tết Trung Thu là chủ đề bàn tán của nhiều bạn nhỏ mỗi dịp tháng 8 Âm Lịch. Trung Thu là thời gian trăng tròn và sáng nhất, đây cũng là thời gian người châu Á thu hoặc xong vụ mùa. Xung quanh ngày Tết Trung Thu vẫn có nhiều sự tích truyền thuyết bí ẩn. Nếu bạn đang tò mò về chủ đề này, bài viết sau sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn truyền thuyết Tết Trung Thu của Việt Nam.
Nguồn gốc của Tết Trung Thu
Tết Trung Thu hay hiểu theo nghĩa thuần Việt là giữa mùa thu. Đây được xem là ngày lành để làm tế lễ thần mặt trăng để người xưa tiên đoán mùa màng. Ngoài ra, Tết Trung Thu cùng là dịp vui chơi của trẻ nhỏ.
Tết Trung Thu là gì? Có nguồn gốc từ đâu
Thực tế không có sử liệu nào ghi rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng 8 – Tết Trung Thu tại Việt Nam. Tuy nhiên, Tết Trung Thu lại xuất hiện tại nước ta từ rất lâu, truyền từ nhiều thế hệ đến ngày nay.
Theo tích xưa, Tết Trung Thu bắt đầu từ Trung Quốc đời nhà Đường, vào thời của vua Duệ Tôn (hiệu Văn Minh). Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng 8, nhà vua ngự chơi ngoài thành gió mát, trăng tròn thật đẹp và gặp một vị tiên giáng trần đội lốp 1 ông lão râu tóc bạc phơ. Vị tiên tử này hóa phép tạo 1 chiếc cầu vòng, 1 đầu giáp cung trăng, 1 đầu chạm mặt đất.
Nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi đây. Sau đó ông trở về với sự luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng nên đã đặt ra ngày Tết Trung Thu. Ngày hội này cũng được du nhập vào Việt Nam từ đó.
Tết Trung thu vào ngày nào?
Tết Trung Thu diễn ra vào ngày 15 tháng 8 Âm Lịch. Đây là truyền thống có từ ngàn năm nay, ngày này chính là thời điểm mặt trăng tròn và sáng nhất. Khoảng thời gian này người châu Á đã thu hoạch xong mùa vụ và bắt đầu tổ chức những lễ hội quây quần bên nhau. Điển hình là lễ hội trăng rằm vào ngày Tết Trung Thu.
Vào ngày này người châu Á hay làm bánh Trung Thu – loại bánh đặc biệt chỉ dịp lễ này mới có. Chúng có nhiều hương vị khác nhau, rất đặc sắc. Bánh Trung Thu thường được ăn cùng nhau vào buổi tối rước đèn thưởng thức với trà và mọi người cùng trò chuyện.
Các sự tích tết Trung Thu
Vào ngày Tết Trung Thu, trẻ nhỏ thường thích nghe kể chuyện, ăn cỗ và quây quần vui chơi. Nhiều câu chuyện truyền thuyết về Tết Trung Thu Việt Nam cũng được ra đời từ đây. Sau đây là một số truyền thuyết, sự tích nổi bật.
Truyền thuyết về bánh Trung Thu
Ngày xưa, có một nàng tiên tên Hằng Nga ở trên trời rất xinh đẹp, cai quản cả vầng trăng. Hằng Nga rất yêu trẻ con nên mong ước của nàng là một lần được xuống trần gian chơi với các em bé, nhưng do quy định nên không được phép.
Hôm nọ, Ngọc Hoàng tổ chức cuộc thi “Làm bánh ngày rằm” vào dịp Rằm tháng 8 có trăng tròn nhất, ai làm bánh ngon và đẹp, lạ mắt nhất sẽ được trọng thưởng.
Điều này khiến Hằng Nga rất thích thú và tham gia ngay. Khi xuống nhân gian tham khảo thì nàng gặp được Cuội – chàng hay nói dóc, thường tụ họp nhiều trẻ em trong làng vào mỗi tối để kể chuyện tầm phào.
Ngoài việc hay nói dóc thì Cuội rất giỏi nấu ăn, hay làm bánh cho những đứa trẻ ăn nên Cuội rất được trẻ em yêu quý. Thấy vậy, Hằng Nga mới mở lời nhờ Cuội cùng nàng làm ra loại bánh đặc biệt. Cuội đã sáng kiến, làm ra loại bánh nướng với nhiều nguyên liệu như: trứng, mè, thịt, lạp xưởng, hạt sen,…
Cuối cùng, thành phẩm những chiếc bánh thơm phức ra lò, những đứa trẻ ăn đều khen ngon. Khi đến thời hạn trở lại thiên đình, Hằng Nga đã đem loại bánh trên để dự thi, từ biệt chàng Cuội tài năng, tốt bụng. Bánh này được gọi là bánh Trung Thu.
Truyền thuyết Hằng Nga và Hậu Nghệ
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Hậu Nghệ – một vị anh hùng thời bấy giờ với tài bắn cung rất giỏi. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.
Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Sự tích chú cuội cung trăng
Ngày xửa ngày xưa, có một tiều phu tên là Cuội. Một hôm Cuội vào rừng, bỗng đâu gặp một con hổ xông đến. Không kịp tránh, anh đành liều mạng vung rìu lên đánh nhau với hổ. Hổ còn non nên thừa sức người, bị Cuội bổ một rìu lăn quay ra đất. Vừa lúc đó, hổ mẹ về tới nơi. Cuội chỉ kịp quăng rìu, leo tót lên cây. Từ trên cao nhìn xuống, Cuội thấy hổ mẹ chạy đến một bụi cây gần đó, đớp một ít lá về nhai mớm cho con. Khoảng giập bã trầu, hổ con tự nhiên cựa quậy, vẫy đuôi rồi sống lại. Chờ cho hổ mẹ tha con đi nơi khác, Cuội tìm đến bụi cây kia, đào gốc mang về.
Từ khi có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Một lần, Cuội cứu được con gái một phú ông, được phú ông gả cô gái ấy cho. Vợ chồng Cuội sống với nhau thật êm ấm. Nhưng một lần. vợ Cuội trượt chân ngã vỡ đầu, Cuội rịt lá thuốc cho mãi mà vẫn không tỉnh lại. Thương vợ, Cuội nặn thử bộ óc bằng đất cho vợ rồi rịt thuốc lại. Không ngờ vợ Cuội sống lại tươi tỉnh như thường. Nhưng từ đó, người vợ mắc chứng hay quên.
Một lần, vợ Cuội quên lời chồng dặn, đem nước giải tưới cho cây thuốc. Vừa tưới xong, ai ngờ cây thuốc lừng lững bay lên trời. Thấy thế, Cuội vội nhảy bổ đến, túm vào rễ cây. Nhưng cây thuốc cứ bay lên, kéo theo cả Cuội lên tít cung trăng. Ngày nay, mỗi khi nhìn lên mặt trăng, ta vẫn thấy chú Cuội ngồi dưới gốc cây thuốc quý.
Sự tích thỏ ngọc
Tương truyền xa xưa có một cặp thỏ tu luyện đắc đạo thành tiên đến diện kiến Ngọc Hoàng Thượng Đế. Khi tới Nam Thiên Môn, thỏ tiên bất chợt thấy Hằng Nga đang bị Thái Bạch Kim Tinh áp giải lên cung trăng. Sau khi nghe kể lại mọi chuyện thỏ tiên động lòng thương cảm Hằng Nga vì cứu bách tích mà phá luật trời.
Khi về nhà thỏ tiên kể lại câu chuyện với gia đình và bàn với đàn thỏ con muốn đứa thỏ út lên cung trăng bầu bạn với chị hằng nhưng gia đình thỏ ai cũng khóc không nỡ rời xa. Thỏ cha liền nói: “Hằng Nga vì giải cứu bách tính mà bị liên lụy. Chẳng lẽ chúng ta lại đứng nhìn. Nếu đổi lại, người bị nhốt là ta thì các con có chịu ở cạnh cùng ta không ? Chúng ta không chỉ nghĩ tới bản thân mình được.”
Thỏ Út thấu hiểu lòng cha mẹ nên đã chủ động chào từ biệt anh chị em và bay lên cung trăng ở cùng chị Hằng.
Sự tích bánh Trung thu
Tại một vương quốc nọ, vào ngày rằm tháng 8 vua cùng hoàng hậu uống trà thưởng nguyệt. Bất chợt vua phát hiện món bánh ngon kỳ lạ đặt tên là bánh Nguyệt. Từ đó, loại bánh này được phổ biến rộng rãi khắp kinh thành để muôn dân hưởng phúc.
Chính vì vậy ăn bánh trung thu ngày rằm được giữ gìn cho tới thời hiện đại. Mọi thành viên trong gia đình quây quần tụ họp bên mâm cỗ bánh nướng bánh dẻo. Bánh thường có hình tròn với hoa văn độc đáo tượng trưng cho sự đoàn viên sum vầy.
Sự tích phá cỗ đêm trăng rằm tháng 8
Tại Việt Nam, tục phá cỗ Trung thu được du nhập không biết từ khi nào và ghi chép lại trong cuốn “Việt Nam Phong Tục” của ông Phan Kế Bính. Thường phong tục của người Việt là ban ngày nhà nhà làm cỗ gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Anh em và cả gia đình đoàn tụ bên mâm cỗ tròn đầy, bố mẹ kể những câu chuyện sự tích đêm rằm cho con cái.
Sự tích đèn ông sao
Có 2 cha con ở ngôi làng nọ kiếm sống bằng nghề làm đèn Trung thu. Công việc hay diễn ra quanh năm khiến người con nhàm chán với chiếc đèn đơn điệu, không hấp dẫn. Một đêm mải ngắm trăng, người con thấy vệt sáng 5 màu tuyệt đẹp lấp lánh kéo dài hình 5 cánh sao. Vì vậy chàng trai ra vườn sau hì hục đốn tre chuốt trẻ thành từng mảnh nhiều kích cỡ rồi tháo lắp làm hình đèn ông sao.
Đêm trung thu khi rước đèn qua ngõ 2 cha con, đám trẻ con hào hứng trước quầng sáng ở góc nhà. Hai cha con đã tặng chúng chiếc đèn lấp lánh, quá háo hức chúng mang đi khắp làng. Dần lan truyền rộng rãi, chiếc đèn trung trư ngôi sao đã phổ biến ở nhiều vùng và được nhiều trẻ em lấy làm đồ chơi trong dịp lễ đặc biệt này.
Ngắm trăng
Vào Trung thu trăng rất to và tròn vì vậy thú vui ngắm trăng dịp này trở nên thịnh hành và được thể hiện nhiều trong thơ ca. Vào ngày này, trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống… sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Hay đơn giản chỉ là việc ngồi thưởng trà mạn cùng bánh ngọt và ngắm trăng cùng người thân bạn bè
Sự tích múa lân và ông thổ địa
Dân gian tương truyền, vị thần Thổ địa thường ban phước sự giàu có trù phú không làm hại ai. Ông dụ con Kỳ Lân xuống trần gian để giúp dân lành hưởng thái bình làm ăn khấm khá. Theo đó, cứ mỗi dịp tết trung thu con lần theo sau ông Địa đi trước phe phẩy quạt mo tươi cười nhộn nhịp ban phước lộc cho buôn làng.
Ý nghĩa ngày Tết Trung Thu là gì?
Trải qua hàng nghìn năm, con người vẫn luôn quan niệm rằng có sự liên kết giữa cuộc đời và vầng trăng. Trăng tròn, trăng khuyết, niềm vui nỗi buồn, sự đoàn tụ và cả các cuộc chia ly. Trăng tròn thể hiện cho sự sum họp, Tết Trung Thu cũng có ý nghĩa là Tết đoàn viên, gia đình đoàn đụ.
Trong ngày vui này, theo phong tục người Việt tất cả các thành viên đều quây quần bên nhau cúng gia tiên cầu mong vạn sự suôn sẻ. Khi đêm xuống, ánh trăng ngập tràn mặt đấtm mọi người cùng ăn bánh trung thu, kể chuyện nhau nghe, cùng nhau uống trà, xem múa Lân rước đèn, trông trăng, phá cỗ….
Ngoài ý nghĩa vui chơi, đoàn tụ Tết Trung Thu cũng là dịp để nhà nông dự đoán mùa màng qua ánh trăng. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tơ tằm. Nếu trăng màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai. Nếu trăng thu màu cam trong sáng, năm đấy đất nước sẽ thịnh trị.
Như vậy qua bài viết bạn cũng nắm được ý nghĩa của Tết Trung Thu và biết thêm nhiều truyền thuyết về Tết Trung Thu của Việt Nam. Hy vọng rằng bạn sẽ có 1 đêm Trung Thu vui vẻ, đoàn tụ cùng gia đình, người thân yêu nhất!